BÀI THAM LUẬN “VẤN ĐỀ PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU - KÉM”.
******************************
Học sinh (HS) yếu – kém được hiểu là
những học sinh bị xếp loại yếu hoặc kém về mặt học lực sau một quá trình học
tập tại nhà trường phổ thông. Theo thiển ý chủ quan của tôi thì hình như lực
lượng học sinh yếu – kém ngày một tăng dần cho từng năm học, mặc dù biểu hiện
trên những con số là có giảm. Và chính học sinh yếu - kém là căn nguyên, là cội
nguồn của mọi sự vi phạm nội qui, mọi tội lỗi. Bởi từ yếu – kém về học lực sẽ
là cơ may thuận lợi nhất để yếu – kém về mặt hạnh kiểm, đạo đức hoặc là bạn
đồng hành của nhau. Đó cũng là nỗi ám ảnh, là niềm băn khoăn, trăn trở của lực
lượng sư phạm từ giáo viên bộ môn (GVBM), giáo viên chủ nhiệm (GVCN) đến Ban
Giám hiệu (BGH) nhà trường, nhất là trường nông thôn như Hòa An chúng ta.
Ý thức được những hậu quả, những hệ
lụy trực tiếp chung quanh tệ trạng học sinh yếu – kém, từ mấy năm học qua lãnh
đạo trường ta đã chủ động đưa ra nhiều phương sách để hạn chế dần đối tượng
nầy. Một trong những phương sách được gọi là khả thi và chấp nhận được đó là tổ
chức “phụ đạo học sinh yếu - kém”. Dựa trên quan điểm là lấy kết quả học lực
học kỳ I, lựa chọn ra những học sinh nào xếp loại yếu – kém và yếu – kém vì bộ
môn nào thì tổ chức phụ đạo môn học đó. Nhưng thường thì chỉ có các môn Văn,
Toán, Anh văn là được phụ đạo. Với cách làm nầy thì ngoài hạn chế là chỉ có một
thiểu số học sinh theo học, phần đông các em nầy thuộc diện “thiểu năng trí
tuệ”, còn có một hiện tượng khác là nhiều em đã mất hẳn động cơ học tập nên có
thái độ chây lười, công sự với chủ trương trên.
Với quan điểm “Hãy phụ đạo ngay khi
học sinh mới chỉ là yếu – kém về học lực chưa kịp mất hẳn động cơ học tập”, nên
có năm học, sau khi khảo sát chất lượng bộ môn Văn – Toán – Anh văn, thể theo
lời yêu cầu của nhiều GVBM tâm huyết, BGH đã tổ chức các lớp phụ đạo có phân
chia lớp và GVBM cụ thể.
Nhưng cả hai cách làm trên đều đạt
hiệu quả thấp, có khi đi ngược lại tác dụng giáo dục và gây lãng phí lớn cho cả
thầy lẫn trò. Bởi chỉ có một số lượng ít các em theo học từng buổi (3,4, 5/25
học sinh theo học môn Toán lớp 7), cho dù BGH và GVCN đã thực hiện nhiều giải
pháp để “lôi kéo” các em ra lớp. Còn phản tác dụng giáo dục là vì những em
không đi học phụ đạo chẳng những không bị xử lý kỷ luật mà có khi cuối năm vẫn
thảng nhiên lên lớp là đằng khác.
Nguyên nhân của hiệu quả thấp về công
tác phụ đạo học sinh yếu – kém các năm học qua tại trường ta thì rất nhiều,
nhưng tựu trung vào các nguyên nhân chủ yếu sau :
1)-Học sinh yếu – kém về học lực không
chỉ vì hoạt động dạy của thầy yếu – kém, mà còn có các lý do khác :
-Các em nghỉ học nhiều trong
năm học;
-Một bộ phận khá đông HS
không chịu soạn bài, học bài, làm bài trước khi đến lớp. Còn đã vào lớp rồi thì
không mang đủ học cụ như sách giáo khoa, tập vở, viết thước, compa, …lại không
chú tâm vào việc học : ngó quanh, lo ra, hoặc tìm mọi cách có thể để làm việc –
trao đổi riêng, cá biệt gây hấn mất trật tự trong tiết học;
Vì thế, với mỗi một tiết phụ đạo cho một
môn học trong tuần thì không thể nào “hàn gắn – kết nối” được các kiến thức –
kỹ năng bị hụt hẫng chứ chưa nói đến lấp đầy khoảng trống mênh mông do các em
nghỉ học quá nhiều buổi. Và chỉ có mỗi một GVBM thì không thể nào cảm hóa, biến
đổi một HS chây lười, biếng nhác, ngỗ ngáo gần như mất động cơ học tập trở
thành một HS ngoan ngoãn được.
Tóm lại, “chỉ nên tổ chức phụ đạo những
HS chịu khó học tập nhưng chất lượng thấp” thôi. Thường là những em “thiểu năng
trí tuệ hoặc tâm thần phân liệt dạng khởi phát”. Các đối tượng còn lại thì nên
có những giải pháp khác mang tính tổng hợp, khả thi và căn cơ hơn.
2)-Chưa có biện pháp cứng rắn mang
tính hành chính để xử lý “mạnh tay” những HS “ngoan cố” không chịu ra lớp phụ
đạo. Đây là biện pháp quá khó, nếu không muốn nói là không tưởng trong giai
đoạn hiện nay khi chúng ta còn bị động, có lúc trở thành bất lực đối với một HS
không ra lớp chính qui, chứ đừng nói chi là lớp phụ đạo.
3)-Việc tổ chức phụ đạo học sinh yếu –
kém thời gian qua và hiện nay vẫn còn là biện pháp tình thế - “đánh đằng đuôi”,
chưa căn cơ cần thay đổi mô typ khác cho phù hợp và hiệu quả hơn.
Như vậy, để không tiếp tục bị động vào
các biện pháp tình thế - đánh đằng đuôi thì chúng ta phải chủ động xác lập
nhanh những giải pháp căn cơ – “đánh đằng đầu” mang tính tổng thể, cộng đồng
trách nhiệm và phải được lãnh đạo từ Chi bộ Đảng của trường học. Nhưng trong
khi chờ đợi Nghị quyết của Chi bộ về vấn đề nầy, chúng tôi xin được mạnh dạn đề
xuất và kiến nghị mấy việc sau :
1)-Với Tổ chuyên môn :
-Xóa dần tư tưởng “bộ môn
phụ” trong các giáo viên dạy Lịch sử (LS), Địa lý ĐL), Giáo dục công dân (GD),
Công nghệ (CN), Sinh học (SH), Vật lý (VL), Hóa học (HH) và các bộ môn xếp loại
khác như Thể dục (TD), Mỹ thuật (MT), Âm nhạc (ÂN);
-Hãy thực hiện các phương
châm “Nhìn vào ánh mắt người học mà dạy”, “Dạy sát đối tượng học sinh”, “Lấy
học sinh làm trung tâm” một cách thực sự và nhất là “Đừng để học sinh yếu – kém
đứng bên lề tiết dạy”;… góp phần xây dựng “HỌC
HIỆU” vững chắc cho nhà trường ta;
- . . .
2)-Với Tổ Chủ nhiệm :
-Sớm ban hành các qui định cụ
thể, sát hợp, hiện thực kèm theo các Nội qui trong học đường để vừa góp phần
nâng cao chất lượng công tác chủ nhiệm, vừa đồng bộ hóa nhất quán hóa năng lực
quản lý HS và đưa vào nền nếp qui củ;
-Mạnh dạn thay đổi, điều
chỉnh việc phân công GVCN cho phù hợp thực tiễn trường học;
-Việc phân hoạch, bố trí HS
từng lớp nên theo địa bàn để vừa tạo điều kiện thuận lợi cho GVCN trong theo
dõi, quản lý lớp học, vừa tạo mối liên hệ khắng khít giữa gia đình với nhà
trường, đồng thời HS dễ gần gũi, tiếp cận với nhau khi học tập theo nhóm tại
nhà;
- . . .
Xây dựng và củng cố nền nếp, ổn định
trật tự, giáo dục hạnh kiểm của GVCN đồng thời với không ngừng cải tiến , đổi
mới phương pháp nâng chất lượng giảng dạy của GVBM có quan hệ tương hỗ, mật
thiết với nhau.
3)-Với Ban Giám hiệu + Chi ủy :
-Đổi mới phương pháp giảng
dạy phải đồng thời với nâng cao bản lĩnh tay nghề của người thầy. Bấy lâu nay,
chúng ta đã liên tục đổi mới phương pháp qua rất nhiều các chuyên đề, hao tốn
biết bao giấy mực, tiền của, công sức, thời gian,…kết hợp với nhiều lần cải
cách chương trình, nội dung sách giáo khoa (SGK) bên cạnh với tăng cường sản
xuất trang thiết bị trường học. Nhưng đội ngủ học sinh yếu – kém chẳng những không
giảm mà đang có nguy cơ tăng dần;
-Đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên phải
đồng thời đổi mới và nâng cao bản lĩnh quản lý, lãnh đạo, điều hành của Ban
Giám hiệu, của Chi ủy và khả năng phục vụ của nhân viên nhà trường;
-Mỗi thành viên Ban Giám hiệu, Chi ủy viên phải hết
sức gương mẫu, dũng cảm, bản lĩnh để kiên quyết xóa dần đến đoạn tuyệt chủ
nghĩa hình thức, bệnh thành tích ảo hầu ngăn chặn hệ lụy của vấn nạn “bị ngồi
nhầm lớp, nhầm cấp của một bộ phận khá đông HS hiện nay”;
-Thành lập và đưa vào hoạt động có hiệu quả Tổ tư vấn
học đường, Tổ giáo dục kỹ năng sống cho học sinh;
-Khi xếp thời khóa biểu dạy – học nên quan tâm nhiều đến lợi ích học
tập của các em. Thời gian qua, có những lớp, một buổi chỉ có các môn khoa học
xã hội (thứ 3, các lớp 7A2, 7A3 : MT, AV, AV, V, V; L, Đ, AV, V, V); hoặc chỉ có
các môn khoa học tự nhiên (thứ 7, các lớp 7A1, 7A2, 7A4 : (T, Si, T; L, T, Si; Si,
T, T); hoặc môn Toán chỉ tập trung ở một vài ngày liền kề nhau, …
Đã gây khó khăn ít nhiều cho việc tiếp
thu, hấp thụ kiến thức và rèn luyện kỹ năng.
- . . .
4)-Với các đoàn thể :
-Đoàn – Đội : bên cạnh những
công việc mang tính hành chính như theo dõi, xử lý HS vi phạm hiện nay, cần phải
thường xuyên gần gũi, tiếp cận nhiều hơn nữa các em diện yếu – kém (cả về học
lực lẫn hạnh kiểm) để cảm hóa chúng. Nhằm thực hiện tốt chức năng cố hữu của
mình là “thông qua hoạt động ngoại khóa, ngoại giờ mà giáo dục, uốn nắn học
sinh”;
-Công đoàn cơ sở (CĐCS) : phối
kết hợp với chuyên môn (chính quyền trường) tổ chức kèm cặp, giúp đỡ những
GVBM, GVCN có trình độ, năng lực, nghiệp vụ giảng dạy và giáo dục còn hạn chế. Xóa
dần khuynh hướng “đánh đồng, cào bằng” trong tổ chức thực hiện các chỉ tiêu
chuyên môn. Tách bạch giữa pháp chế và thi đua, vì đang có sự ngộ nhận hoặc lầm
lẫn lớn về hai khái niệm nầy. Nhiều lúc đã đồng hóa thi đua với pháp chế. Vì
thế dễ nảy sinh ra bệnh đối phó lẫn nhau để được công nhận đạt danh hiệu thi
đua, để không bị Ban Giám hiệu “quấy rầy”. Tệ hại hơn, đã làm cùn mằn, nhụt chí
đấu tranh và sức phấn đấu của nhiều người;
-BTT.Hội Cha mẹ học sinh
(CMHS) : nâng cao vai trò, trách nhiệm của tổ chức Hội. Chủ động, tích cực đi
sâu và giải quyết có hiệu quả các gia đình có con, em trong diện yếu – kém;
- . . .
5)-Với Đảng ủy và Thường trực Ủy ban nhân
dân (UBND) xã :
-Tiếp tục đẩy mạnh việc nâng
chất các gia đình văn hóa, ấp văn hóa, đặc biệt chú mục đến các tiêu chí “nâng
chất lượng cuộc sống tinh thần của người dân” để hạn chế và ngăn chặn các tệ
nạn xã hội đang có nguy cơ xâm nhập vào học đường. Bởi các bài học về giáo dục
công dân không đủ liều khi mà hàng ngày có nhiều em phải chứng kiến những cảnh
tượng phản cảm, phản giáo dục ở gia đình, ngoài xã hội;
-Nhìn nhận vấn đề “học sinh bỏ
học” thông thoáng và biện chứng hơn, đừng tạo áp lực nặng nề cho nhà trường,
cho thầy cô giáo. Để chúng ta sớm xác lập những phương sách thông minh, hữu
hiệu giảm dần hệ lụy của vấn nạn nầy;
- . . .
6)-Với ngành giáo dục huyện – tỉnh :
-Đã không thể sử dụng kết quả
xét tốt nghệp trung học cơ sở (TN.THCS) cho tuyển sinh vào lớp 10 do thiếu độ
tin cậy vào việc đánh giá – xếp loại của trường học trong cùng đại bàn thì nên
chăng là vẫn tiếp tục duy trì cách thức tuyển sinh như hiện nay. Nhưng cần mạnh
dạn thay đổi một chút, dù nhỏ nhưng rất căn cơ. Đó là, chọn ngẫu nhiên 4 môn
thi trong 4 cụm bộ môn : Văn – Toán – Ngoại ngữ; Sử - Địa – GD; Lý – Hóa – Sinh
– CN và Nhạc – Mỹ thuật – TD, (giống như bắt thăm chia bảng thi đấu thể thao vậy). Ví dụ : sẽ có kỳ thi tuyển sinh với 4 môn đã được
chọn ngẫu nhiên : Toán – Sử - CN – TD, … chẳng hạn. Và dĩ nhiên , kỳ thi vẫn
diễn ra 1 ngày (sáng 2 môn, chiều 2 môn).
Nếu tổ chức được như thế thì cái gọi
là “môn phụ” sẽ không còn nữa. Và mọi môn học đều bình đẳng và trách nhiệm như
nhau. Lúc đó, không chỉ có Văn, Toán, Ngoại ngữ mới có học sinh yếu – kém.
-Cho
phép “rộng rãi” một số GVBM có thâm niên và trình độ tay nghề tương đối vững
được “thực hiện chương trình linh động hơn để phù hợp với đối tượng học sinh”,
nhằm thu hẹp dần diện yếu – kém. Đính kèm Công văn chỉ đạo của Bộ GD&ĐT số
9832/BGDĐT-GDTH, ngày 01/9/2006 do Thứ trưởng Đặng Huỳnh Mai ký và nỗi niềm của
Thứ trưởng khi trả lời phỏng vấn Báo Pháp luật số ra ngày 21/3/2005.
- . . .
Tóm
lại,
*“Không thể phụ đạo những học sinh yếu – kém về học
lực nhưng không phải vì học yếu, học kém”. Còn học sinh yếu – kém vì các nguyên
nhân khác thì cần có giải pháp tổng thể, cộng đồng trách nhiệm, khả thi từ sự
lãnh đạo sáng suốt bằng Nghị quyết chuyên đề của Chi bộ.
*”Phụ đạo học sinh yếu – kém” và “bồi dưỡng học sinh
giỏi” khác nhau về bản chất nên hoàn toàn không thể tổ chức giống nhau. Phải
“nhúng” những con người cụ thể và tế nhị ấy vào “môi trường” đã “manh nha” ra
chúng để mà giáo dục, uốn nắn. Cố nhiên, không để có phương pháp giảng dạy tối
ưu nào cho vấn đề nầy nếu như người thầy chưa có tấm lòng vị tha, nhân hậu. Đó
là bản lĩnh của người thầy.
Chúc buổi họp thành công mang lại nhiều ý nghĩa
thiết thực.
Người viết tham luận : Vienphanhong@gmail.com.